Honda Chaly CF50 ra đời vốn có ngoại hình là một chiếc xe nhỏ gọn, dễ điều khiển, nhằm phù hợp với đại đa số người dùng lúc xưa, vì thường sẽ có tạng người thấp bé.
Đến hiện tại, nhiều người chơi vẫn thường gọi Chaly thuộc dòng mini bike, đã gần 50 năm kể từ ngày đầu ra mắt với nhiều phiên bản khác nhau. Hiện cũng còn rất nhiều biker trên thế giới tìm kiếm và mong muốn sở hữu một chiếc xe cổ Chaly CF50 hay CF70.
Phiên bản đầu tiên
Ngày 20 tháng 7 năm 1972, Honda chính thức phát hành chiếc Chaly CF50 và CF70. Honda Chaly CF50 có 2 phiên bản CF50-I và CF50-II, với mục đích hướng tới người dùng phổ thông, thân thiện với mọi gia đình, phục vụ nhu cầu hằng ngày.
Lúc bấy giờ, kế hoạch sản xuất của Honda là 7.000 xe mỗi tháng, với giá bán cho CF50-I khoảng 73.000 yên (16 triệu), CF50-II là 75.000 yên (16,4 triệu) yên và CF70 là 78.000 yên (17,1 triệu).
Chiếc xe có chiều cao rất thấp khiến cho ai ngồi lên cũng cảm thấy an toàn. Động cơ với bộ ly hợp tự động, khởi động nhẹ nhàng bằng cần đạp. Bình nhiên liệu, ắc quy, lọc gió,… được thiết kế nằm gọn trong phần khung thân xe.
Với bản CF50-I, chỉ có 2 số “chậm và nhanh”, còn chiếc CF50-II với thì có 3 cấp số.
Bửng chắn nhỏ hai bên để cản bớt gió, nước cũng như bùn văng lăn lên người lái. Ba-ga phía sau xe có thể chở đồ và có khóa móc treo mũ bảo hiểm.
Ngoài ra, phụ kiện mua thêm còn có giỏ đựng đồ phía trước và khung treo hành lý 2 bên.
Honda Chaly 1976
Đến năm 1976, chỉ còn lại phiên bản Honda Chaly CF50-II và thay vào đó, Honda cũng giới thiệu phiên bản mới CF50-III với thông số kỹ thuật cơ bản:
Động cơ dung tích 49cc, đường kính xy-lanh x hành trình piston – 39 x 41,4 mm. Công suất cực đại khoảng 3,1 HP tại vòng tua 7.500 rpm. Mô-men xoắn 3,33 Nm tại vòng tua 6.000 rpm. Trọng lượng 76 kg. Bình nhiên liệu chứa 2,8 lít và mức tiêu hao trung bình 80 km/lít.
Một chút thay đổi vào năm 1979
Tháng 2 năm 1979, phiên bản Chaly mới với một chút thay đổi xuất hiện. Phần ống xả đã được thiết kế lại nhìn hiện đại hơn và cũng tuân thủ những quy định về tiếng ồn tại Nhật.
Nắp bình xăng có thêm đồng hồ đo để dễ nhận biết mức xăng còn trong bình. Xi-nhan cũng có tiếng động để người lái không quên tắt. Ba-ga sau cũng có kích thước lớn hơn.
Phiên bản năm 1981
Phiên bản này đã tạo điểm nhấn khi được Honda công bố là chiếc xe đầu tiên trên thế giới trang bị động cơ 4 kỳ với mức tiêu hao nhiên liệu cực thấp, chỉ 100 km/lít (tại tốc độ 30 km/h).
Để có được kết quả này, Honda đã trang bị một buồng đốt được làm lại. Ngoài ra, chi tiết máy móc cũng được giảm trọng lượng piston, giảm ma sát, lọc gió lớn hơn, cải tiến hệ thống nạp và trái ga của chế hòa khí.
Tất cả đã tạo nên một khối động cơ tiết kiệm nhiên liệu ở tốc độ thấp và trung bình, được đánh giá là êm dịu nhất, bền bỉ. Ngoài ra, bộ số 3 cấp cũng hoạt động mượt mà từ khởi động cho đến tăng tốc.
Một số trang bị khác từ động cơ: Bộ đánh lửa điện từ CDI cho động cơ 4 kỳ. Tăng sên cam tự động. Hộp số vòng, giúp dễ dàng sang số N từ cấp số cao nhất.
Thông số kỹ thuật cũng thay đổi, tăng công suất lên thành 3,4 mã lực tại 7.000 vòng. Mô-men xoắn 3,73 Nm tại 5.000 vòng tua máy. Trọng lượng tăng 2 kg và chiều dài xe cũng dài hơn.
Một số thay đổi bên ngoài dễ nhận ra: Đèn pha và xi-nhan chuyển thành hình vuông. Giỏ đựng đồ cao hơn nằm phía trên đèn pha. Yên ngồi dài hơn và không có đường nẹp bên hông. Ống xả cũng được điều chỉnh để êm hơn và cho công suất động cơ tốt hơn.